BÁT MÔN CÁC DU - NIÊN
Bát môn cũng tức là 8 cung Kiền, Khảm, cấn… các du – niên là theo khuôn khổ tóm lại mà biết tên 8 du niên của mỗi cung biến ra. – Các nhà chuyên môn Bát trạch đều thuộc nằm lòng bài này để tính ra du – niên một cách linh tiệp, khỏi phải lật sách tìm, xem bài này vốn theo cách Lập thành tóm tắt trên, nhưng khác hơn 3 điều:
1. Không kể ra tên 8 cung gặp kia.
2. Tên du – niên nào cũng có 2 chữ, nhưng đây chỉ dùng một trong 2 chữ.
3. Bỏ du – niên Phục vị (vì mình đã rõ kiền gặp Kiền, Khảm gặp Khảm, Cấn gặp Cấn… đều là phục vị).
- KIỀN lục, thiên, ngũ, hoạ, tuyệt, diên, sinh.
- KHẢM quỷ, y, khí, niên, mệnh, hại, sát.
- CẤN sát, tuyệt, hoạ, sinh, tuyệt, diên.
- CHẤN niên, khí, hại, mệnh, quỷ, y, sát.
- TỐN thiên, ngũ, lục, hoạ, sinh, tuyệt, diên.
- LY sát, quỷ, mệnh, niên, hại, khí, y.
- KHÔN y, diên, tuyệt, sinh, hoạ, ngũ, lục.
- ĐOÀI khí , hại, niên, mệnh, sát, quỷ, thiên.
- Dẫn giải câu đầu về cung Kiền: (bỏ Kiền gặp Kiền là Phục vị)
Kiền gặp Khảm là Lục sát, gặp Cấn là Thiên y, gặp Chấn là Ngũ quỷ, gặp Tốn là Hoạ hại, gặp Ly là Tuyệt mệnh, gặp Khôn là Diên niên, gặp Đoài là Sinh khí.
. Câu 2: Khảm gặp Cấn là Ngũ quỷ, gặp Chấn là Thiên y, gặp Tốn…
. Câu 3: Cấn gặp Chấn là Lục sát, gặp Tốn là Tuyệt mệnh, gặp Ly…
. Câu 4: Chấn gặp Tốn là Diên niên, gặp Ly là Sinh khí, gặp Khôn…
. Gặp 5: Tốn gặp Ly là Thiên y, gặp Khôn là ngũ quỷ, gặp Đoài…
. Gặp 6: Ly gặp Khôn là Lục sát, gặp Đoài là Ngũ quỷ, gặp Kiền…
. Câu 7: Khôn gặp Đoài là thiên y, gặp Kiền là Diên niên, gặp Khảm…
. Câu 8: Đoài gặp Kiền là Sinh khí, gặp Khảm là Hoạ hại, gặp Cấn…
BÀI 9: CÁC ỨNG BIẾN VÀ HỖ BIẾN
Trong phép Bát biến du – niên (xem bài 8) có hai cách: chính biến và Hổ biến. Cần phân biệt để dùng cho trúng chỗ.
- Chính biến: là từ cung Cửa – cái biến tới mỗi cung của các chỗ kia. Mỗi khi biến tất được một du – niên. Từ cung Cửa – cái biến tới một cung nào thì an du – niên vào cung ấy chớ không an vào Cửa – cái. Thí dụ Cửa – cái tại Kiền và Bếp tại Đoài thì phải từ Kiền biến tới Đoài tất được Sinh khí, vậy an Sinh khí tại Bếp Đoài chớ không an tại Cửa – cái Kiền. Thí dụ Cửa – cái tại Khảm và Chủ – phòng hay Sơn – chủ tại Chấn thì phải từ Khảm biến tới Chấn tất được Thiên y, vậy an Thiên y tại Chủ – phòng hay Sơn – chủ Chấn. Thí dụ Cửa – cái tại Ly và Hướng Bếp ngó về Đoài thì phải từ Ly biến tới Đoài tất được Ngũ quỷ, đó là Hướng – Bếp ngó về Đoài Ngũ quỷ… Từ Cửa – cái biến tới Cửa Bếp, biến tơi Cửa – phòng, biến tới Cửa – ngõ đều cũng gọi là Chính biến, nhưng 3 chỗ này ít quan trọng.
- Hỗ biến là hai cung của hai chỗ biến qua biến lại với nhau và tất nhiên cùng được một du – niên giống tên. Du – niên này không chính thức ở bên nào, nhưng vẫn có ảnh hưởng cho cả hai bên (hai chỗ). Thí dụ từ Bếp Ly biến tới Sơn – chủ Tốn được Thiên y, rồi từ Sơn – chủ Tốn biến lại Bếp Ly tất cũng được Thiên y. Thiên y này ảnh hưởng cho cả hai bên Ly và Tốn, nhưng nhiều ít có khác. Bởi Thiên y Thổ nói với Ly Hoả là tương sanh đắc vị, tốt nhiều, nhưng đối với Tốn Mộc là tương khắc thất vị, tốt ít.
Hỗ biến không dùng vào hết thảy 7 chỗ quan hệ, chỉ dùng vào 3 chỗ chính yếu mà thôi, tuỳ theo Tịnh – trạch, Động – trạch hay Biến – hoá – trạch. Ở Tịnh trạch thì dùng Cửa – cái, Chủ – phòng và Bếp hỗ biến với nhau. Ở Động trạch hay Biến hoá trạch thì dùng Cửa – cái, Sơn – chủ và Bếp hỗ biến với nhau. – Như 3 chỗ chính yếu hỗ biến với nhau được 3 du – niên tốt là Sinh khí, Diên niên và Thiên y thì gọi là Nhà ba tốt (nhà có 3 du – niên tốt). Bằng 3 chỗ chính yếu hỗ biến với nhau chỉ được một du – niên tốt mà tới 2 du – niên xấu là cái nhà bất lợi. (Không có trường hợp hai chỗ tốt và một chỗ xấu. Cũng không có trường hợp ba chỗ đều xấu).
Phàm ở nhà ba tốt sẽ phát đạt, giàu sang và yên lành. Thí dụ Cửa – cái tại Cấn, Phòng – chủ tại Khôn và Bếp tại Đoài. Vậy lấy Cấn Hỗ biến cùng được Sinh khí, lấy Khôn với Đoài hỗ biến cùng được Thiên y và lấy Đoài với Cấn hỗ biến cùng được Diên niên. Ba chỗ chính yếu này hỗ biến với nhau được Sinh khí, Diên niên và Thiên y là ba du – niên tốt cho nên gọi là Nhà ba tốt, ở sẽ thịnh vượng. – Thí dụ Cửa – cái tại Tốn, Sơn – chủ tại Kiền và Bếp tại Khảm. Vậy lấy Tốn với Kiền hỗ biến cùng được Hoạ hại, lấy Kiền với Khảm hỗ biến cùng được Lục sát, và lấy Khảm với Tốn hỗ biến cùng được Sinh khí. Ba chỗ chính yếu này hỗ biến với nhau được Hoạ hại, Lục sát và Sinh khí, tức là chỉ có một tốt mà tới hai xấu cho nên gọi là nhà bất lợi, ở chẳng thịnh vượng.
BÀI 10: DU – NIÊN SỞ – THUỘC, HUNG KIẾT
- Có 4 kiết du – niên ứng điểm lành là: Sinh khí Diên niên, Thiên y và Phục vị. Và cũng có 4 hung du – niên ứng điểm dữ là: Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát và Họa hại.
1) SINH KHÍ thuộc Mộc là du – niên rất tốt, đem sức sống mạnh và nguồn sanh lợi lộc vào nhà. Ở Đông tứ trạch thì hợp trạch (hợp với nhà), khiến cho nhà thịnh vượng lên, vì Mộc với Kim tương khắc. Sinh khí lâm Chấn Tốn Mộc là đăng diện tốt nhiều hơn lâm Khảm Ly Thuỷ là đắc vị, cón lâm Kiền Đoài Cấn Khôn là thất vị tốt ít. (Phàm du – niên gặp cung tỷ hoà là đăng diện tốt bậc nhất, gặp cung tương sanh là đắc vị tốt bậc nhì, gặp cung tương khắc là thất vị tốt bậc ba).
2) DIÊN NIÊN thuộc Kim là du – niên rất tốt, có nghĩa là tuổi thọ, làm bền sự phát đạt, thứ nhất là phát đạt tài ngân, châu ảo. Cũng gọi nó là thần phúc đức. Ở Tây tứ trạch thì hợp trạch (hợp với nhà), khiến cho nhà thịnh vượng lên, vì Kim gặp Kim thành Vượng khí. Bằng ở Đông tứ trạch là không hợp với nhà, vì Kim với Mộc tương khaắc. – Như Diên niên lâm kiền Đoài là đăng diện tốt nhiều hơn lâm Cấn Khôn Khảm là đắc vị, còn lâm Chấn Tốn Ly là thất vị ít tốt.
3) THIÊN Y thuộc Thổ là du – niên rất tốt, làm hưng vượng điền sản, đất vườn, lục súc. Nó có tính cách như một lương y, một cứu tinh năng giải trừ tai hoạn, năng gia tăng phúc đức. Ở Tây tứ trạch thì nó hợp với nhà vì Thổ sanh nhà Kim, bằng ở Đông tứ trạch không hợp với nhà vì nhà Mộc khắc Thổ. Thiên y làm Cấn Khôn là tỷ hoà đăng diện tốt nhiều hơn lâm Kiền Đoài Ly là tương sanh đặc vị, còn lâm Chấn Tốn Khảm là tương khắc thất vị tốt ít.
4) PHỤC VỊ là du niên tốt phụ thuộc, có tánh cách phụ trợ, tiếp thêm. Ở chung với Phòng – chủ hay Sơn – chủ và Bếp thừa Sinh khí, Diên niên, Thiên y thì nó tốt theo, bằng thừa hung du – niên thì nó chẳng ra gì. Ở Đông tứ trạch thì nó hợp với nhà vì Mộc ặp Mộc sanh vượng khí, bằng ở Tây tứ trạch thì nó không hợp với nhà vì nhà Kim khắc Mộc. – Phục vị lâm Chấn Tốn là tỷ hoà đăng diện tốt hơn lâm Khảm Ly là tương sanh đặc vị, bằng lâm Kiền Đoài Cấn Khôn là tương khắc thất vị tốt ít.
5) TUYỆT MỆNH là du – niên rất hung hại, đem tuyệt khí vào nhà, sinh kế rất bất lợi. Nó ở cung nào cũng gây tai hoạ, dù tỷ hoà hay tương sanh cũng vậy (dù đăng diện hay đắc vị cũng vậy). Đông tứ trạch có nó thì nguy lắm vì nó Kim khắc nhà Mộc.
6) NGŨ QUỶ thuộc Hoả là du – niên rất hung, đem tai hoạ vào nhà, thứ nhất là những chuyện quái dị, bệnh hoạn và các tai nạn máu lửa. Bếp gặp nó xấu nhất. Ở Tây tứ trạch có nó thì nguy nhất vì nó Hoả khắc nhà Kim. Dù nó đăng diên hay đắc vị cũng hung.
7) LỤC SÁT thuộc Thuỷ là hung du niên, đem sát khí vào nhà, chuyện ứng về các tai nạn nước, tà dại, dâm đãng. Nó ở Bếp hại nhiều hơn ở các chỗ khác. Cái sức lực gây tai hoạ của nó kém hơn Ngũ quỷ và Tuyệt mệnh, vì nó thuộc Thuỷ đối với Đông tứ trạch hay Tây tứ trạch đều tương sanh.
8) HOẠ HẠI là một hung du – niên, đem hung khí vào nhà, sanh nhiều hao hại. Cái sức hung hại của nó tương đương hoặc nhẹ hơn Lục sát. Đối với Đông tứ trạch tương sanh, đối với Tây tứ trạch nó bị khắc, không nguy hại bằng Tuyệt mệnh và Ngũ quỷ.
(Chú ý: Sinh khí đồng ứng như sao Tham lang, Diên niên đồng ứng như sao Vũ khúc, Thiên y đồng ứng như sao Cự môn, Phục vị đồng ứng như sao Phụ Bật, Tuyệt mệnh, đồng ứng như sao Phá quân, ngũ quỉ đồng ứng như sao Liêm trinh, Lục sát đồng ứng như sao Văn khúc và Hoạ hại đồng ứng như sao Lộc tồn. Vậy nên xem bài 11 nữa mới đầy đủ)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét