BÀI 13:
BÁT TINH PHÂN PHÒNG HƯNG BẠI
- Phòng – chúa dùng Tham lang thì trưởng nam hưng phát, dùng Cự môn thì trung nam hưng phát, dùng Vũ khúc thì thiếu nam hưng phát. Trái lại phòng – chúa có Phá quân hay Liêm trinh thì trưởng nam suy bại, ắt chịu nghèo nàn và thường bị hình tụng, có Văn khúc thì trung nam suy bại, có Lộc tồn thì thiếu nam suy bại. (Trưởng nam là con trai cả hoặc nói chung là hạng con cháu trọng tuổi. Trung nam là con trai thứ, hoặc hoặc nói chung là hạng con cháu lứa tuổi vừa vừa. Thiếu nam là con trai út, hoặc nói chung là hạng con cháu nhỏ tuổi).
BÀI 14:
BÁT TINH ĐỊNH TỬ TÔN
- Tham lang sanh 5 trai hiển đạt. Vũ khúc sanh 4 trai cường thịnh. Cự môn sanh 3 chàng hào hùng. Liêm trinh sanh 2 đứa. Văn khúc bất quá một trai. Phụ Bật chỉ có con rể. Phá quân là sao tuyệt khí ứng điềm goá bụa, cô độc. Lộc tồn khó con trai nhưng ứng điềm sống lâu.
Đại khái luận số con cho bát tinh là như vậy.
BÀI 15:
HOÁ TƯỢNG ỨNG, NỘI NGOẠI SINH KHẮC
- Thuần Âm là ròng một loại Âm, như Tốn Ly Khôn Đoài gặp nhau. Phàm thuần Âm thì chẳng sanh hoá, chẳng sanh con cái mà thường bị bệnh hoạn. Thí dụ: Cửa – cái tại Ly mà Chủ – phòng tại Đoài, Cửa – cái tại Tốn mà Bếp tại Ly, hoặc ba chỗ chính yếu là Cửa – cái, Chủ – phòng (hay Sơn – chủ) và Bếp tại Ly, hoặc ba chỗ chính yếu là Cửa – cái, Chủ – phòng (hay Sơn – chủ) và bếp đều ở trong vòng 4 cung Tốn Ly Khôn Đoài.
- Thuần Dương là ròng một loại Dương, như Kiền Khảm Cấn Chấn gặp nhau. Thuần Dương cũng như thuần Aâm, chẳng sanh hoá, không sanh được con cái, nhưng lúc đầu thịnh vượng. Thí dụ Cửa – cái tại Khảm mà Chủ – phòng cũng tại Khảm, Cửa – cái tại Kiền mà Bếp tại Cấn, Cửa – cái tại Kiền mà Sơn – chủ tại Chấn, hoặc ba chỗ chính yếu là Cửa – cái, Chủ – phòng (hay Sơn – chủ) và Bếp đều ở trong vòng 4 cung Kiền Khảm Cấn Chấn.
- Nội sinh ngoại là trong sanh ra ngoài gọi là sanh xuất ứng điềm phát đạt nhưng chậm và phải do công sức khó nhọc mà hưng lên. Phàm Chủ – phòng hay Sơn – chủ sanh Cửa – cái gọi là nội sinh ngoại, nhưng Chủ – phòng hay Sơn – chủ phải gặp Kiết du – niên mới tốt, bằng gặp hung du – niên cũng chẳng ra gì. Thí dụ Chủ – phòng tại Khôn Thổ sanh Cửa – cái tại Kiền Kim, đó là nội sinh ngoại và Chủ – phòng thừa Diên – niên là kiết du – niên. Thí dụ Chủ – phòng Ly gặp Hoạ – hại là hung du – niên chẳng tốt mà còn hao thoát rất nhiều.
- Ngoại sinh nội à ngoài sinh vào trong gọi là sanh nhập, ứng điềm phát đạt dễ dàng, gia đạo hưng khởi mau lẹ, hay có tiền của bất ngờ. Phàm Cửa – cái sanh Chủ – phòng hay sanh Sơn – chủ là ngoại sinh nội, nhưng Chủ – phòng hay Sơn – chủ phải thừa kiết du – niên mới tốt, bằng thừa hung du – niên ắt chẳng ra chi. Thí dụ Cửa – cái tại Khảm Thuỷ sanh Sơn – chủ tại Tốn Mộc và Sơn – chủ thừa Sinh khí là kiết du – niên rất tốt. Như Cửa – cái Kiền Kim sanh Chủ – phòng Khảm Thuỷ cũng là ngoại sinh nội, nhưng Chủ – phòng thừa Lục sát là hung du – niên tất không phaải là cách hay.
(Luận về hai cách trên: nội sinh ngoại như phải đi câu mới đươc cá, mà nếu có nhiều thì cũng sẩy bớt cá. Còn ngoại sinh nội như người khác mang cá đến biếu cho mình, mình khỏi phải nhọc đi câu).
- Nội khắc ngoại là trong khắc ngoài tất ứng điềm bất lợi, tai hoạ từ trong khởi lên, hưng giặc trộm chẳng vào nhà được. Phàm Chủ – phòng hay Sơn – phòng khắc Cửa – cái thì gọi là nội khắc ngoại.
- Ngoại khắc nội là ngoài khắc trong tức tai hoạ từ bên ngoài đưa đến, điềm tthân mình bị thương hại. Phàm Cửa – cái khắc Chủ – phòng hay khắc Sơn – chủ gọi là ngoại khắc nội.
- Âm nhập Dương cung hay là ngoài cung Âm trong cung Dương thì trước sanh con gái, bằng Dương nhập Âm cung hay là ngoài cung Dương trong cung Âm thì trước sanh con trai. Ngoài là Cửa – cái, trong là Chủ – phòng hay Sơn – chủ.
(Ở Tịnh – trạch thì dùng Chủ – phòng, ở Động – trạch hay Biến – hoá – trạch thì dùng Sơn – chủ).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét